Có rất nhiều thứ để chúng min nói về các mẫu đồng hồ hoẵng tay, một trong số đó là khả hoặc chịu nước. Lịch sử về khả hay kháng nước của đồng hồ bắt đầu vào năm 1920, song đáng kể nhất phải là đến sau này buổi đồng hồ lặn với khả năng chịu nước đáng gờm vào đời. Ngày ni, đồng hồ dùng biếu việc lặn đã trở thành thử phổ biến trong nhóm đồng hồ thể thao, chẳng nhất thiết người sử dụng chúng biếu việc lặn, họ sử dụng chúng như một món phụ kiện cá tính, thời trang với sự đảm bảo về độ bền và giá trị hữu dụng. Bất kể bạn trả vài trăm đô hay vài ngàn đô tặng một chiếc đồng hồ, điều mà chúng ta coi đợi đều là độ tin tức cậy, sự chính xác và cảm giác thoải mái. Hiếm hồi nào chúng mỗ nhớ đến việc phải mất bao lăm thời phòng để một chiếc đồng hồ đưa tay chuyển đổi từ một mảnh của nghệ thuật đến các nhà xưởng sản xuất, bắt kịp với những thách thức chúng ta phải đối mặt trong suốt mọi hoạt động sống hàng ngày. Sự vào đời đồng hồ lặn và khả hay là chịu nước gây biếu chúng ta một sự tò mò nào đó: những model quan trọng nhất trong lịch sử, các yếu tố thiết kế được nhìn đợi cũng như những thách thức mà họ phải đối mặt và chinh phục. Những chiếc đồng hồ hoẵng tay đầu tiên dành tặng trai được sáng tạo lại từ đồng hồ bỏ túi mà vỏ và hàng được hàn dính liền rau. Những người lính ở cuối những năm 1980 và trong suốt chiến giành thế giới lần thứ nhất tìm kiếm một cách tính nết thời phòng lượm hơn, dễ dàng hơn và giúp họ “rãnh tay” hơn trong suốt các trận chiến. Thời bấy giờ, đồng hồ đưa tiễn tay được tính hạnh là trang sức tặng phụ nữ vì thế được bảo quản quá mức. bởi vì đó mà đàn ông trong thời kỳ này cũng chả quan hoài lắm đến đồng hồ đưa tay. Vấn đề ổ đây là mức độ tin tưởng.# cậy của chúng quá thấp: dễ bị hư hỏng hỏng nhát tiếp nhận vài sự shock mạnh, nhiệt độ và độ ẩm vậy đổi khi hoẵng trên tay cố kỉnh vì bọc trong suốt túi áo khoác năng vest. Rõ ràng là đồng hồ đưa tay sẽ giò thể được ưa chuộng tặng đến tã lót những vấn đề trên được giải quyết. Các vấn đề chính ở đây là nước, độ ẩm và bụi, dễ dàng được tìm thấy trong các chuyển động của bộ máy đồng hồ Do khoảng trống giữa các nút, sự chẳng chính xác của các yếu tố trong suốt việc gia đả và lắp ráp. Điều này làm cho các bộ phận bị gỉ sét, là căn do chất bôi trơn giò thể thực hiện chức hay là của mình, dẫn đến bánh răng và bánh răng chuyền bị kìm hãm và động tê bị hỏng. Vì vậy, nếu đồng hồ được hoẵng trên cổ tay thì những yếu tố này sẽ tăng cao - đo đó trước hết phải có một số cố kỉnh đổi đáng kể được thực hiện như quan hoài hơn đến quy trình sản xuất, lắp ráp. Như chúng min đã nhìn thấy, cố đổi chỉ còn là vấn đề thời gian. bên cạnh đó cùng với đề xuất từ những kỹ sư trong ngành và cả sự cạnh giật khốc liệt giữa các làm ty đồng hồ đã làm bởi vậy một sự phát triển kỹ thuật quan trọng. Vài năm sau đó, nhiều ý tưởng tuyệt vời được thiết lập để tạo vào các giải pháp đeo tính cách mạng, loại bỏ hết những quan điểm cũ kỹ từ quá khứ. Họ thiết kế nhiều mẫu đồng hồ mới, duy trì hoạt động của chúng trong suốt những thập kỷ sau, hoặc nhiều thế kỷ, những thiết kế mà thỉnh thoảng ngày nay vẫn được ứng dụng lại. Bước đầu tiên là phải nhận ra nguồn gốc của vấn đề và sau đó tìm kiếm giải pháp loại trừ vĩnh viễn chúng. Thế kỷ 20, những chiếc đồng hồ bỏ túi chả được chế tác với mức kháng nước và độ bền làm trọng vâng. Những người thợ chế tác đã ấp ủ trải qua một thời gian dài nghiên cứu để tạo nên những chiếc đồng hồ đưa tay như ngày nay, khắc phục được nhược điểm từ kiểu chế tác thời kỳ cũ. Mở đầu cho việc sáng tạo ra đồng hồ hoẵng tay ngày ni là một trong suốt các xót thương hiệu đồng hồ Thụy Sỹ - Rolex với người sáng lập được chú ý là Hans Wilsdorf . Một ví dụ tuyệt vời là mẫu đồng hồ Rolex Hermetic hoặc Submarine được tạo ra vào năm 1922. Hermetic là một mẫu đồng hồ với vỏ tròn nhỏ, với một lớp vỏ mỏng bên ngoài bao lòng vòng được cố định. Ý nghĩa của việc làm này là hệ thống nút vặn bị bít kín và đồng hồ được bao phủ toàn bộ. nhưng mà có một vấn đề phát sinh ở đây là nhát cần điều chỉnh kim đồng hồ phải loại bỏ phần nắp đậy và sau đó đóng lại. Việc sử dụng thường xoi phải tác động lên các rãnh ở một bên của nắp đúc và đây là tác nhân hoi hư hỏng hại bên trong một cách nhặt chóng, đòi hỏi đồng hồ phải được sửa chữa. Có một thực tế đáng bàn là những chiếc đồng hồ với lớp vỏ lớn không tạo ra một mai sau biếu ngành đồng hồ, đặc biệt là tặng người chi tiêu dùng phía ngoài đồ đội. Có một giải pháp thực tế và bền bĩ hơn, cũng là duy nhất đó là tích hợp việc chống thấm nước vào lớp vỏ đồng hồ. François Borgel, một nhà sản xuất vỏ đồng hồ dành được hai bằng sáng chế vào năm 1891 và 1903, tương ứng với hai loại đồng hồ nhỏ-mảnh khác rau với lớp vỏ có bộ phận ren vặn. Nói về bằng sáng chế cấp năm 1903, gồm một vòng tròn bao xung loanh quanh chuyển động và gờ lắp mặt kính đồng hồ, kiểu vỏ này nút vặn được cố định bằng ren vặn vào trong suốt. Kết quả là chúng mỗ có một vòng đệm kín hơn mà chớ cần phải sử dụng một nắp đậy hàn kín đằng ngoài như trước. Sáng chế trên đã tạo ra một bước tiến lớn, những nhà sản xuất đồng hồ như IWC , Longines đã sử dụng vỏ đồng hồ của hãng Borgel tặng một số đồng hồ của họ, đằng cạnh đó còn một vấn đề quan tiền trọng vẫn chưa được giải quyết: vòng đệm làm kín chỗ nút vặn. Nguồn: LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐỒNG HỒ LẶN